BÁT QUAN TRAI GIỚI
A. MỞ ĐỀ
Đức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có
đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa.
Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài
ba môn chính là "giới, định, huệ".
Trong "giới, định, huệ", thì giới
là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ
giới, tâm mới định, tâm có định, huệ
mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ
được vô minh phiền não; vô minh phiền não có
dứt trừ mới minh tam kiên tánh và thành Phật.
Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao,
thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có
thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di
chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới,
Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì
có Tam quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát
giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng ta đã học
rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta
sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói
đến Bát quan trai giới.
B. CHÁNH ĐỀ
I. ĐỊNH NGHĨA
Bát quan trai giới là một phép tu hành của
người tại gia áp dụng trong một ngày một
đêm (24 giời).
Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn
8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng
Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12
giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy
"Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm
được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng
hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội
lỗi sau đây:
1. Không được sát sanh
2. Không được trộm cướp
3. Không được dâm dục
4. Không được nói dối
5. Không được uống rượu
6. Không được trang điểm, thoa dầu
thơm, múa hát và xem múa hát.
7. Không được nằm ngồi giường cao
rộng đẹp đẽ
8. Không được ăn quá giờ ngọ
II. GIẢI RÕ TÁM ĐIỀU RĂN
CẤM NÓI TRÊN
1. Không được sát sanh
a) Ý nghĩa vì sao không được sát sanh:
Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có
một điểm quan trọng giống nhau là tham sống,
sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không
cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan
sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy
người cá lội xa, chim thấy người chim bay
cao, cũng như người thấy cọp người
lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính
mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người
đều vùng vẫy để chốn thoát. Và khi
được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung
sướng cho bằng! Nhận thấy được
sự tham sống sợ chết, nối vui mừng,
đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn
đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật lạ
nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.
Từ trước đến nay, loài người
đã giết hại rất nhiều, bằng đủ
phương tiện, nào làm lưới để bắt cá
dưới nước, dùng cung tên súng đạn
để bắt cầm thú trên đất...và nhất là
dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết
hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có
nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về
phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những
người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải
cố gắng đừng sát hại sinh vật và nhất
là đừng sát hại người. Về sự sát
hại người, trong Ngũ Giới Phật đã tuyệt
đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát
nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật,
vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa
tuyệt đối giữ được giới sát.
Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt
đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết
người, không trù tính mưu mô giết người,
đã đành ! Chúng ta cũng không nên động lòng
trước sanh mạng của tất cả mọi loài
hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết
hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn
cản đừng cho người ta thi hành ác ý ấy.
Được như thế là ta giữ
được trọn vẹn giới sát, mặc dù
chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ
lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.
2. Không
được trộm cướp
Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý
nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở
hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu,
đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ
đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người
ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường
thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa,
đi làm trễ giờ, boc lột công nhân, lấy của
công, ăn hối lộ, được của
người không trả lại, đều là trộm
cướp.
Người đời coi tiền của hơn tánh
mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế
nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình, và
để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn.
Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi
nước mắt mà có, người ta vô cùng đau
khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta
cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất
của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta không
muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên
mình cũng không nên trộm cướp của ai. Đó là
lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng
ta là Phật tử , nghĩa là những người
quyết tâm diẹt trừ tham dục, để
được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy
của phi nghĩa?
Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày
để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ
được một cách tuyệt đối giới
cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi
lương cho cao, bán hàng xấu với gía cao, mưu tính
chước này kế nọ để được
lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng
ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng
tự bào chữa rằng vì sự sống của gia
đình, thân thuộc mà phải làm như thế.
Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy
quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng
không được để cho một ý nghĩ tham
lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không
nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai
trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta
cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm
bậy. Không những không trộm cướp và ngăn
ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố
thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn
thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người
thân thuộc, trong cảnh túng thiếu.
Giữ được giới này một cách tuyệt
đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ
đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo được
những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của
chúng ta.
3. Không được dâm dục
Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân
hồi, nên người xuất gia phải đoạn
hẳn. Phật dạy rằng: "Người muốn
đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn
mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu
cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu,
trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm
được".
Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành
Phật quả thì phải trừ dâm dục.
Còn những Phật tử tại gia, chưa có
thể hoàn toàn đoàn trừ dâm dục được, thì
Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ
chồng, không được lan chạ; và giữa vợ
chồng, cũng cần phải giữ chánh lễ,
biết tiết dục để cho thân tâm được
trong sạch nhẹ nhàng.
Nhưng đây là nói về ngày thường của
Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát
quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ
giới tịnh hạnh, không được hành
động dâm dục đã đành, nà cũng không
được nhớ nghĩ đến những
điều dâm dục.
Nếu triệt để giữ đúng giới này,
thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích
cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã có dịp
để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn
rất quý báu trong sự tu hành diệt dục.
4. Không được nói dối
Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối
có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ
Giới. Đó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói
lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai
hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất
là làm mất lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà
không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một xã
hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có
thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong
ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để
thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai, không nói
thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã
đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người
chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy !
Nếu thực hành triệt để giới cấm
này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã
gieo được một hột nhơn quý báu rất
hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.
5. Không được uống
rượu
Rượu làm say mê, tối tăm trí não người
uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc
độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay,
song chỉ giết chết một đời người
thôi; chớ rượu làm cho người cuồng tâm,
mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh
lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si
ám.
Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: "Thà
uống nước đồng sôi cho tan mất thân này,
chứ không nên uống rượu".
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những
người đang trau dồi Trí tuệ để
được sáng suốt như Phật, chúng ta không
được uống rượu. Chúng ta không uống
rượu đã đành, mà cũng không khuyên mời
người uống rượu. Tự mình uống
rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời
người khác uống, tội lại nặng hơn.
Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo
phaỉ có rượu hòa với thuốc uống mới
lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm dùng,
Khi đó rượu trở thành một vị thuốc,
chứ không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng
loạn nữa.
Đấy là nói về ngày thường, chứ trong
ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phải
trừ tuyệt rượu, không được uống
đã đành, mà còn khuyên răn người khác đứng
uống nữa.
6. Không được trang
điểm,thoa dầu thơm, múa hát và đi xem
Năm giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là
năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng
ta đến cảnh giới Niết Bàn, hay vào địa
ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa
ấy về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay
lẽ phải, thấy những điều thiện,
điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết,
đạo vị, thì con đường đến
Niết Bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng ta
hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô
trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe
tiếng du dương luyến ái của dục vọng,
thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say
nồng, kích thích dục lạc, thì con đường
địa ngục đã sẵn sàng mở rộng
để đón chờ chúng ta.
Phật cấm Phật tử trang điểm, tô
sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hat
lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những
cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi
đọa vào địa ngục.
Nhưng trong đời sống hằng ngày của
người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc
với đời sống xã hội, nên phải ăn
mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải
đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát, miễn
là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát
ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng và hướng
thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ
thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương,
chiếu bóng..phần nhiều có tánh cách trụy lạc,
thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá dễ dãi
mà sa vào vòng tội lỗi.
Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày
thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không
được trang điểm, xức ướp dầu
thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta
phải cố gắng diệt trừ những âm
hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ
thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng ta.
Đưọc như thế, thì tuy thời gian
chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng
tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành
của chúng ta.
7. Không được nằm ngồi
giường cao đẹp, rộng lớn
Điều răn cấm này cũng như
điều răn cấm thứ sáu, có mục đích
ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những
cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường
cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm
giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của
xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội
lỗi, nên Phật ché ra giới cấm này. Xưa Ngài
Ngộ Đạt Quốc sư là một bực cao
đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết
sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho Ngài một bảo
tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi
được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt
Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất
đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau
khổ.
Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao
chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài
Hiếp Tôn Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm
chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập
nguyện: ba năm không nằm giường chõng;
đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia tìm
đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ
năm này sang năm khác...
Noi gương người xưa, các vị xuất
gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ
hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng
giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng
nên tập dần đức tánh giản dị đạm
bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường,
thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt
để thi hành giới thứ bảy này.
8. Không được ăn quá giờ
ngọ
Trong luật Phật dạy: "Chư thiên ăn
sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau
giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng
học theo Phật, phải ăn đúng giờ
ngọ".
Ăn đúng giờ ngọ, được năm
điều lợi sau đây:
Ít mống tâm sai quấy
Ít buồn ngủ
Dễ được nhất tâm
Ít hạ phong
Thân được yên ổn và ít sanh bệnh.
Trừ một vài trường hợp như khi
đau ốm, luật cũng châm chước cho
được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng
khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn.
Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên
người xuất gia cần phải thực hành. Còn
Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng
phải giữ đúng giới này.
C. KẾT LUẬN
1. Lợi ích của Bát quan trai giới
rất lớn lao
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên,
Bát quan trai giới là một phát tu vô cùng lợi ích cho
Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy,
thân, khẩu, ý của người thọ giới
được hoàn toàn thạnh tịnh, chỉ có 24
giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý
báu hơn cả một đời của người không
tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều
tuy vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là
một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn
quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ,
nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là
viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác.
Chúng ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích
mà chúng ta đã thuâ hoạch được trong 24 giờ
ấy mà xem.
Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có ác ý
giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt
những máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì
thịt cá. Đối với chung quanh, ta không làm cho
người và súc vật đau khỏ, mất thân
mạng.
Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không động, ý ta
không tham lam, thân ta không mang nặng những vật phi
nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm
họ đau khổ vì mất của cải m,à họ
đã nâng niu, quý trọng.
Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh
tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với
người bạn trăm năm, cùng những
người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ
kính trọng.
Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà vạy,
lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối
với người chung quanh, ta giữ được
chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi
ngờ vì ta.
Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được
minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta
không loạn động. Đối với người
chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ
sở vì con ma men này hành hạ.
Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không buông lung theo
dục lạc ta không dung chứa những hình ảnh, mùi
vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Đối với
người chung quanh, ta không làm cho họ phải tập
nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh
thoát.
Nhờ giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên
những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục
lạc lôi cuốn. Đối với người chung
quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bị cái
cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách.
Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được
định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít
bệnh tật; đối với các loài chung quanh, như
người nghèo đoí, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra
sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về
đêm.
Bao nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà
chúng ta đã thâu thập được trong khoảng 24
giờ đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu
hành của người tại gia nào quý báu hơn thế nữa?
2. Bởi vậy Phật tử nên
thực hành Bát quan trai giới
Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày
suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn,
mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào chùa
thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn
cảnh thuận lợi, có thể thọ được
nhiều lần lại càng tốt.
Nếu không đủ điều kiện đến
chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng
được, nhưng lợi ích không bằng đến
chùa.
Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố
gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo
hạnh giải thoát, rồi khuyên nhiều người
thật hành theo, để cùng nhau tiến bước lên
đường giải thoát, an vui.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét