Dân có quyền đuổi những công bộc hư hỏng “Chính phủ cộng hòa dân chủ là gì? Là đày tớ chung của dân, từ chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.* * Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 5. NXBCTQG. Hà Nội 1995, tr.60.
Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012
Cà Dái Dê (Cà Tím)
Bức ảnh “Napalm Girl” tròn 40 tuổi
Cuối tháng Năm/2012, nhiều Web site lớn trên thế giới đã đưa tin: “Tấm ảnh chụp “napalm girl” đã được 40 năm”.
Chỉ trong một giây, nhiếp ảnh gia của hãng tin AP (Associated Press) lúc đó là ông Huỳnh Công Út, tức “Nick Ut” – một thanh niên 21 tuổi – quyết định bấm máy, ghi lại hình ảnh những đứa bé kêu khóc bị bom napalm trên một quốc lộ ở miền Nam Việt Nam trước đây. Đó là thị trấn Trảng Bàng, cách Sài Gòn 30 phút lái xe về hướng bắc.
Đó là ngày 8 tháng 6 năm 1972, cô bé tên Phan Thị Kim Phúc nghe các binh sĩ VNCH hét lên: “chạy nhanh đi ra khỏi nơi đây, họ sắp dội bom, chết hết bây giờ!” Chỉ vài giây sau, cô bé thấy “vầng sáng màu vàng và cam” tỏa lên xung quanh một Thánh Thất Cao Đài nơi gia đình cô bé trú ẩn từ 3 ngày qua. Phúc chạy nhào ra Quốc Lộ 1 cùng với các trẻ em khác. Quần áo Phúc bị cháy tan, còn lưng và cánh tay Phúc bị cháy nám đen. Phúc la lên “nóng quá, nóng quá”.
Nick Út đã lấy nước cho Phúc uống rồi vội vã đưa Phúc lên xe chạy đến bệnh viện Củ Chi. Tại đó Út nói “Tôi là một phóng viên, xin làm ơn cứu đứa bé này, tôi không muốn nó chết”. Và mọi người đã giúp đỡ Phúc ngay. Bên cạnh Út lúc đó còn có ký giả Christopher Wain của ITN (Independent Television Network), ông này đã rưới nước trong căng-tin lên người Phúc (không biết việc làm ấy chỉ làm vết bỏng thêm trầm trọng). Về sau, Wain đã giúp Út đưa Phúc từ bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn đến bệnh viện Barsky, nơi duy nhất có đủ phương tiện để điều trị những vết bỏng nặng. Qua 17 lần giải phẫu, Phúc được một nhóm các bác sĩ gồm nhiều quốc tịch khác nhau đã tận lực cứu chứa. Sau 2 năm ròng rã, cô bé Phúc 9 tuổi đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Thoạt đầu tấm ảnh trứ danh không được đăng vì AP có đường lối không đăng ảnh lỏa thể, nhưng Horst Faas, Giám Đốc phân bộ ảnh, khi liếc qua, đã thay đổi ý kiến. Ông nói: “tấm ảnh này có giá trị lớn lắm đó”. Faas đã đúng, “napalm girl” trở thành một trong những tấm hình chụp ấn tượng nhất về chiến tranh Việt Nam. Riêng Nick Út được trao giải Pulitzer 1972.
Thế còn Kim Phúc thì sao?
Sau khi được cứu sống, Phúc trở về lại Trảng Bàng. Khi quân cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam tháng Tư, 1975 thì cái-gọi-là “giải phóng miền Nam” chỉ làm cho cuộc sống của Phúc thêm khốn khổ vì gia đình của Phúc bị liệt vào thành phần tư bản và bị mất tất cả tài sản. Nhưng cha mẹ Phúc vẫn cố gắng nuôi dưỡng đứa con bị thương tật, thường xuyên phải chịu những cơn đau xé người vì các vết bỏng cũ.
Năm 1982 – 10 năm sau tấm ảnh của Nick Út – một nhiếp ảnh gia người Đức đến Việt Nam và muốn tìm “cô bé trong hình”. Thế là cộng sản Việt Nam thấy ra Phúc là một công cụ quý giá. Chúng tìm ra được Kim Phúc đã trở thành một cô sinh viên năm thứ nhất Đại học Y Khoa (TPHCM). Kể từ lúc đó Phúc không còn được yên ổn nữa . Cô bị buộc phải đóng các bộ phim tuyên truyền. Khi trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, cô bị kiểm soát hết sức gắt gao. Nhiều lần, Phúc tìm cách trốn chạy nhưng vẫn bị truy lùng và bắt lại. Cuối cùng, cô bị buộc thôi học và bắt phải trở lại Trảng Bàng. Tại đây Phúc bị quản thúc nghiêm ngặt vì là một “biểu tượng quốc gia về chiến tranh” (national symbol of war).
Kim Phúc nói: “Tôi muốn chạy trốn khỏi tấm hình đó. Tôi bị phỏng vì bom napalm, và tôi trở thành một nạn nhân của chiến tranh. Nhưng khi tôi lớn lên, tôi lại trở thành nạn nhân của một thứ khác”. Thế nhưng dù luôn luôn trong tình trạng bị o ép, rình rập trong gọng kềm của nhà cầm quyền cộng sản, Kim Phúc may mắn tìm được một nơi trú ẩn yên ổn cho tâm hồn, đó là lúc cô tình cờ đọc được một cuốn Kinh Thánh. Và rồi từ một tín đồ Cao Đài, Kim Phúc đã trở thành một giáo hữu Tin Lành.
Năm 1986, Kim Phúc tìm được cơ hội đi học tại Cuba. Tại Cuba, Phúc gặp một du học sinh là Bùi Huy Toàn. Năm 1992, hai người kết hôn và đến Moscow để hưởng tuần trăng mật. Trong khi bay từ Moscow trở lại Cuba, Toàn và Phúc quyết định đào tẩu khi máy bay ghé lấy nhiên liệu tại Gander, Newfoundland (Canada). Sau đó, hai người đã được hội đoàn Tin Lành bảo trợ để được tị nạn tại Canada.
Năm 1996, với sự giúp đỡ của Ron Gibbs, một cựu chiến binh Hoa Kỳ và một thành viên Ban Giám đốc Quỹ Đài Tưởng niệm (The Memorial Fund), Kim Phúc thành lập “The Kim International Foundation” với mục đích cứu giúp các trẻ em chiến tranh trên khắp thế giới. Năm 1997, Kim Phúc được UNESCO tặng danh hiệu “Đại sứ Thiện nguyện cho một Văn hóa vì Hòa bình” (Goodwill Ambassador for a Culture of Peace).
Cô bé Kim Phúc trong hình và người phóng viên Nick Út ngày nào đã gặp lại nhau khi Phúc ra được tới Cuba. Út khuyến khích Phúc kể lại câu chuyện cuộc đời mình cho thế giới biết. Ban đầu Phúc từ chối vì đã quá chán ghét những cuộc tra hỏi và quay phim của nhà nước cộng sản Việt Nam, cô chỉ muốn sống một cuộc đời bình thường như bao người khác. Nhưng cuối cùng, Kim Phúc quyết định dành lại quyền thuật lại câu chuyện đời mình. Cuối năm 2000, cuộc đời của Phan Thị Kim Phúc đã được tác giả Denise Chong kể lại trong cuốn sách mang tựa đề “The Girl in the Picture”.
Giờ đây 49 tuổi, Kim Phúc sống hạnh phúc ở Toronto với chồng và 2 con. Cô có thể bình tĩnh nhìn vào bức ảnh và nói: “Rất nhiều người chỉ biết hình tôi nhưng rất ít người biết về cuộc đời tôi. Tôi thật biết ơn vì giờ đây tôi có thể chấp nhận tấm hình ấy như một tặng phẩm đầy sức mạnh. Và rồi chính tôi phải chọn lựa. Và rồi tôi có thể dùng tấm hình ấy để làm việc cho hòa bình.”
Ngũ Phương – tổng hợp
Nguồn:
- Audio “Lời Chứng Của Bà Phan Thị Kim Phúc” , Phan Thị Kim Phúc, tinlanhhyvong.com
- ”Iconic 'napalm girl' photo from the Vietnam War turns 40”, Margie Mason, USA Today,
- ”Vietnam Napalm Girl” famouspictures.org
Mót Lúa
Bà ngồi mót từng hạt lúa rơi
Bao lâu mới có bát cơm đầy
Nhìn hình con thấy lòng se lại
Cực khổ nầy biết thuở nào vơi
Bà ơi! Mây mù còn che phủ
Để trời Nam vương một màu tang
Đất nước lầm than dân nghiệt ngã
Tình sầu nầy nặng đến thiên thu
Biết đến chừng nào hết khổ đau
Cho bà được thấy ánh nhiệm mầu
Hàn vi cơ cực không còn nữa
No cơm ấm áo đến nghìn sau
Con biết cuộc đời như giấc mơ
Như cơn gío thoảng nước qua cầu
Con xin khấn nguyện trời cao thấu
Cưú được dân lành kiếp bể dâu
Bí quyết trường xuân qua ca dao tục ngữ
Người xưa tuổi thọ kém, ai sống tới bảy mươi đã cho là hiếm hoi, nhân sinh thất thập cổ lai hi. Đã vậy, nhiều người suốt đời chỉ hùng hục làm việc, chạy theo bả lợi danh, bo bo giữ của không biết hưởng đời là gì, tới khi già yếu, sắp xuôi tay nhắm mắt, tính sổ cuộc đời mới thấy là dại:
Một năm là mấy tháng xuân
Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa?
Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi
Bo bo giữ lấy của trời làm chi?
Bẩy mươi chống gậy ra đi
Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi.
Từ đó, người xưa rút kinh nghiệm, để lại cho con cháu biết bao là lời khuyên bảo chí lý, không ngoài mục đích khuyến khích chúng ta hãy biết tận hưởng những hương vị của cuộc sống ngay từ thuở thanh niên son trẻ, cùng cho chúng ta bí quyết để kéo dài tuổi xuân:
Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau.
Mỗi năm, mỗi tuổi, mỗi già
Chẳng lo liệu trước ắt là luỵ sau.
Ngày nay, chúng ta đều biết rằng khoa học tiến bộ vượt bực đã giúp cho con người rất nhiều phương tiện để được hưởng một cuộc sống tiện nghi, thoải mái và lý thú hơn xưa. Đồng thời ngành y dược cũng tiến bộ đáng kể, đã giúp cho con người chửa được lắm bệnh hiểm nghèo, tăng thêm phần sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ. Những kết quả nầy tuy đã đem lại nhiều phúc lợi cho nhân loại, nhưng vì thiếu tính chất nhân bản nên chúng vẫn không giúp cho con người đạt được chân hạnh phúc. Đây chính là lý do khiến chúng ta thích đọc lại ca dao, tục ngữ, một loại văn chương bình dân truyền khẩu phong phú của dân tộc, để tìm hiểu xem đâu là quan niệm nhân sinh của người xưa, và qua đó, chúng ta lĩnh hội được những gì về bí quyết trường xuân để đem lại cho mình một đời sống hạnh phúc trọn vẹn, lâu dài?
Sau khi nghiên cứu tục ngữ, ca dao, chúng ta hẳn thấy bí quyết trường xuân của người xưa đã được qui vào những điểm sau đây:
1)- Người xưa trước hết phải biết sống qua triết lý tri túc, tiện túc, nghĩa là biết đủ ấy là đủ. Chính vì biết sống an phận, không đòi hỏi nhiều nên cuộc sống mới được nhàn nhã, tâm hồn được thảnh thơi:
Ông cả ngồi trên sập vàng
Cả ăn cả mặc lại càng cả lo.
Ông bếp ngồi trong xó tro,
Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm.
Huống chi cuộc đời qúa ngắn ngủi, làm nhiều làm chi cho khổ thân:
Đời người sống mấy gang tay,
Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm.
2)- Phải biết quẳng gánh lo đi mà vui sống. Sự lo nghĩ buồn phiền làm cho tâm thần rã rượi, mặt mày héo úa, xấu xí, sức khoẻ sa sút. Ông Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc và bà Đoàn Thị Điểm trong Chinh Phụ Ngâm đã phải công nhận điểm nầy:
Chiều ủ dột giấc mai trưa sớm
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
(Cung Oán)
Võ vàng đổi khác dung nhan
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
(Chinh Phụ)
Bởi vậy ca dao mới khuyên ta chớ nên cả lo như các bà mẹ xưa, mười chuyện lo cả mười, chuyện không đáng cũng lo, như thế thì lo cả đời chưa hết:
Mẹ già lo bẩy, lo ba
Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.
Và phải biết xem nhẹ, xem thường mọi chuyện:
Lo gì mà lo, lo con bò trắng răng
Mua ba đồng thuốc nhuộm răng cho bò.
3)- Đồng thời phải nuôi dưỡng các đức tính Từ Bi, Hỉ, Xả. Có biết cảm thông, xót thương, giúp đỡ và tha thứ cho người, tâm ta mới không vướng bận, ghét ghen, oán thù mà hằng giữ được trong sáng, hoan lạc:
Có câu tích đức tu thân
Hoạn nạn tương cứu, phú bần tương tri (trì)
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
4)- Cái tâm trong sáng, hoan lạc nầy lại cần được thể hiện qua nụ cười luôn tươi nở trên môi. Khi cười, không những các bắp thịt mặt được thư dãn, vẻ mặt trông tươi mát. Lòng ta cũng cảm thấy phấn khởi, hạnh phúc. Giá trị của nụ cười đã được người xưa xác nhận qua câu tục ngữ:
Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
Ngoài ra nụ cười tươi còn gây được ảnh hưởng vui sống cho những người xung quanh:
Ngó lên lỗ miệng em cười
Như búp hoa nở, như mặt trời mới lên.
Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Trăm quan mua mấy miệng cười
Nghìn quan chẳng tiếc,
Tiếc nụ cười em xinh.
(Đúng ra là: nghìn quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen)
Giá trị nụ cười không chỉ được người Á Đông chúng ta đề cao mà ngay cả ở Aâu Mỹ cũng có nhiều câu danh ngôn được truyền tụng: chaque fois qu’un homme sourit et plus encore quand il rit, il ajoute quelque chose à ce brin de vie (mỗi khi người đàn ông mĩm cười và hay hơn nữa khi hắn cười, hắn đã thêm một chút gì có ý nghĩa cho cuộc đời mong manh này).
Le sourire appporte la chaleur à celui qui recoit, ne coute rien à celui qui donne (Nụ cười mang lại sự ấm áp cho người nhận, mà người cho chẳng mất mát gì cả).
5)- Phải biết giữ vệ sinh cho thân thể. Con người, thân thể có sạch sẽ, mới khoẻ mạnh, nhan sắc các bà, các cô phần lớn do cái răng, cái tóc quyết định:
Cái răng, cái tóc là góc con người
Ai muốn có một hàm răng đều đặn, tươi xinh, sáng ngời như những câu ca dao vừa dẫn chứng ở trên tất phải biết phép giữ vệ sinh và bồi dưỡng cho răng lợi. Bằng chẳng chịu giữ gìn, răng sẽ bị sâu, bị thối, bị sún, bị sứt, bị gẫy, nhan sắc trông chẳng còn đẹp tí nào, mà khi ăn khó nhai, khó cắn, mất cả ngon. Vậy, muốn sạch miệng, tốt răng người xưa dạy phải súc miệng bằng nước muối, phải ăn trầu và nhuộm răng đen. Muốn thơm da, mát thịt thì tắm nước nấu lá hương nhu, lá rau mùi hay cách hoa ngọc lan. Còn muốn tốt tóc sạch gầu thì:
Tốt tóc thì có mần trầu
Sạch ghét, sạch gầu bồ kết với chanh.
Người sạch sẽ là người biết tự trọng và dễ gây được thiện cảm với người xung quanh mình, nhất là người đó lại thuộc phái đẹp:
Nước trong ai chẳng rửa chân,
Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn.
6)- Bổn phận làm đẹp. Nam hay nữ đều nên làm đẹp, riêng phái nữ thì làm đẹp còn phải kể là một bổn phận, để tạo hạnh phúc cho gia đình. Trong Chinh Phụ Ngâm, bà Đoàn Thị Điểm cũng đã công nhận như thế:
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng rũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốt chén vàng
Vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng.
Người ta làm đẹp qua cách điểm trang và cách ăn mặc. Làm đẹp giúp người ta trông trẻ ra, đẹp hơn và có duyên thêm:
Trắng da vì bởi phấn giồi
Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa.
Có trầu cho miếng đỏ môi
Có rượu cho chén thêm tươi má hồng.
Cau già, dao sắc lại non
Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa.
Người tốt về lụa
(Lúa tốt về phân)
Chân tốt về hài
Tai tốt về hoãn.
Và cũng vì trang điểm đẹp thêm nên ta cảm thấy tự tin hơn, yêu đời hơn và cuộc đời cũng vì đó mà lên hương thêm, cao giá thêm:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên ngư tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình.
Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
7)- Phải biết ăn uống sao cho bổ và ngon. Tục ngữ có câu "dĩ thực vi tiên". Người xưa xem chuyện ăn uống quan trọng hơn cả, vì hiểu rằng:
Ăn vóc học hay.
Hoặc:
Có thực mới vực được đạo
Và:
No nên bụt, đói ra ma.
Hiển nhiên có ăn mới khoẻ mạnh nên hình dạng con người đẹp đẽ, cũng như có học mới thành người giỏi, người tài. Sau nữa, có ăn no đủ người ta mới dễ dàng giữ được nhân cách, đạo đức, sống đời từ bi bác ái. Khi đã xem vấn đề ăn uống là chuyện hàng đầu ở đời, mà chuyện ăn uống lại là chuyện tế nhị, chuyện nghệ thuật, chuyện văn hoá chứ phải thường đâu, nên người ta mới cần đến tài nội trợ, bếp núc đảm đang, khéo léo của các bà các cô.
Tất nhiên không kể đến những người quá nghèo, hay đang gặp cơn bĩ cực, không tiền mua gạo đã phải ăn rau, ăn ráy, ăn khoai độn bụng để sống tạm qua ngày:
Đói ăn rau, đau uống thuốc.
Đói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng.
Còn người nội trợ bình thường nào cũng biết "liệu cơm gắp mắm", nghĩa là biết tuỳ theo khả năng mà lo cho chồng con được cơm dẻo canh ngọt. Hai bữa ăn chính của dân ta, cơm là căn bản nên phải lo trước tiên. Theo người xưa:
Cơm ba bát, áo ba manh
Đói chẳng xanh, rét chẳng chết
Như thế, một con người cơm đủ no (mỗi bữa ba bát) sẽ có đủ sức khoẻ để chống chọi với khí hậu khắc nghiệt. Cơm đủ ăn rồi, người ta mới nghĩ đến cách nấu nướng, chế biến thực phẩm thành những món ăn làm sao đem lại sự khoái khẩu và tăng thêm chất lượng dinh dưỡng cho cơ thể.
Nhiều tiền mua thịt
Ít tiền mua xương.
Đúng vậy, người nội trợ không ngoan. Khéo léo dù ít tiền vẫn có thể sửa soạn những món ăn ngon cho gia đình:
Trời mưa cho ướt lá dừa
Cho tươi luống cải cho vừa lòng em.
Cho em hái đọt rau dền,
Nấu tô canh ngọt dâng lên mẹ già.
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.
Bồng em đi dạo vườn cà,
Cà non chấm mắm, cà già làm dưa.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
Nói chung ở thôn quê Việt Nam xưa, nhà nào có đủ gạo ăn, lại có được cái ao rau muống với hai món tương cà gia bản thì có thể yên tâm là gia đình sẽ được đủ no và gia đạo sẽ được an vui:
Nhà em có vại cà đầy
Có ao rau muống, có đầy chĩnh tương.
Dầu không mỹ vị cao lương
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em.
Một nhà vui vẻ êm đềm,
Đói no tuỳ cảnh, không thèm luỵ ai.
Còn những gia đình khá giả hơn thì người nội trợ thường hay sửa soạn, nấu nướng những món ăn đắt tiền hơn, cầu kỳ hơn cốt làm tăng thêm khẩu vị cho mọi người. Cũng vì miếng ngon nhớ lâu nên người ta có thể kể lại vanh vách. Này đây là những món ngon dành cho mẹ già:
Tôm rằn lột bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Ba tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho được để nuôi mẹ già.
Này đây là những món ngon dành cho vợ chồng con cái:
Cơm trắng ăn với chả chim
(Chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà no).
Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hột sen.
Bậu câu cá bống, ngắt đầu kho tiêu
Kho tiêu, kho mở, kho hành
Kho ba lượng thịt để dành cho em ăn.
Sống thì cua nướng, ốc lùi
Chết cũng nên đời, ăn những miếng ngon.
Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó
Chết xuống âm phủ biết có hay không?
Các bà nội trợ còn lo sắp xếp thực đơn mỗi ngày, mỗi bữa những món ăn khác nhau cho chồng con ăn không chán, lại thấy lạ và ngon miệng:
Sáng ngày bồ dục chấm chanh
Trưa gỏi cá cháy, tối canh cá chầy.
Việc bếp núc cũng lắm công phu, muốn thành công người ta phải nắm được một số bí quyết, như:
Mùa nào thức ấy. Như thế vừa rẻ vừa ngon, vừa tươi và có nhiều chất bổ dưỡng giúp phát triển và bảo trì cơ thể lành mạnh:
Chim, gà, cá, lợn, cành cau
Mùa nào thức ấy, giữ mầu nhà quê.
Biết cách chọn mua thực phẩm sao cho tươi và ngon:
Mua thịt thì chọn miếng mông
(Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi)
Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Mua bầu xem cuống
Mua rau xem lá
Mua cá xem mang
Mua cua xem càng.
Món ăn nào phải dùng gia vị ấy. Ngoài ra làm ăn phải sạch sẽ, giữ cho đồ ăn
được tinh khiết, trong lành mới là trọn vẹn:
Con gà tục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi,
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng giềng.
- Cá không ăn muối cá ươn.
Thịt đầy canh không hành không ngon.
- Cái cò, cái vạc, cái nông
Ba con cùng béo, vặt lông con nào?
Vặt lông con vạc cho tao
Hành, răm, mắm muối bỏ vào mà thuôn.
Con lươn có tiếng hôi tanh
Xào nấu sạch sẽ cũng thành món ngon.
Rau cải nấu với cá rô
Gừng thêm một lát, cho cô giữ chồng.
Nên biết những đặc sản của mỗi vùng. Khi đã biết, ra chợ dễ mua bán, và khi đã mua được cây trái, thực phẩm ngon rồi, người nội trợ chắc chắn dễ thành công hơn trong việc cơm nước cho gia đình, hay những bữa tiệc tùng cho họ hàng, bè bạn:
Thí dụ 1, thổ sản miền Trung:
Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh
Vú sữa nào ngọt bằng vú sữa Cần Thơ?
Sầu riêng măng cụt Cái Mơn
Bắp thì Chợ Giữa, giồng khoai Mỹ Hoà.
Bến Tre nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn mầu mở, biển thừa cá tôm.
Bánh tráng Mỹ Lồng
Bánh phồng Sơn Đốc.
Thí dụ 2, thổ sản miền Trung:
Ốc gạo Thanh Hãn
Mật rú Bát Phường
Măng cây Huyện Do
Gầm ghì Chợ Huyện
Thơm rượu Hà Trung
Mắm ruốc Cửa Tùng
Mắm nêm Chợ Sải.
Thí dụ 3, thổ sản Miền Bắc:
Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần
Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.
Biết chọn các món ăn đi cặp với nhau cho tăng khẩu vị. Cuối cùng người nội trợ tế nhị, từng trãi còn phải biết sắp xếp những món ăn nào đi cặp với nhau khiến ăn vào cho tăng khẩu vị, như:
Mâm cốm kẽo kẹt mâm hồng
(Bát bịt, mâm đồng kẽo kẹt một nơi).
Mâm thịt kẽo với mâm xôi
Thịt bùi, xôi dẽo kẽo nơi bà già
Cùi dừa kẽo kẹt bánh đa
Cái dĩa thịt gà kẽo kẹt lá chanh.
Nồi cơm kẽo với nồi canh
Quả bí trên nhành kẽo với tôm he
Bánh tráng kẽo với nước chè (trà)...
Cơm nắm ăn với thịt dim
Vừa bùi vừa dẻo lại thêm mặn mà.
Chính nhờ tài nội trợ cơm nước khéo léo và cách sắp xếp món ăn hợp khẩu vị này mà các bà vợ Việt Nam đã bảo vệ được hạnh phúc gia đình. Người chồng đi xa nhà, thấy nhớ món ăn ngon của vợ lại muốn mau mau trở về:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nấu ăn ngon đã trở thành một trong những bí quyết tạo hạnh phúc và giữ hạnh phúc gia đình. Đấy là lý do vì sao không một bà mẹ Việt Nam nào lại không dạy con gái nghệ thuật nấu nướng. Và cô gài nào có tiếng nấu nướng giỏi, có kém nhan sắc một chút vẫn lấy được chồng ngon lành như thường:
Có phúc lấy được vợ già
Vừa sạch cửa nhà, lại ngọt cơm canh.
8)- Ăn chơi phải có chừng mực. Ăn uống vừa bổ, vừa ngon miệng tất đem lại cho con người nhiều sức khoẻ. Có sức khoẻ lại có đạo đức, người ta mới mong sinh được những đứa con tốt lành:
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Có sức khoẻ người ta mới mong hưởng thụ được nhiều lạc thú ở đời. Thôi thì đủ cả:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng.
Già thì già tóc, già tai
Già răng, già lợi, đồ chơi không già.
Tuy nhiên chúng ta đều biết cái gì thái quá cũng không nên:
Ăn lắm thì hết miếng ngon
Nói lắm thì hết lời khôn hoá rồ.
Bởi vậy, nếu người ta cứ mặc sức ăn chơi, hưởng thụ theo cái lối buông thả, chơi cố:
Đã sinh tài sắc ở đời
Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài.
Không tự giới hạn, kiềm chế được mình thì rồi trường xuân đâu chẳng thấy, tật bệnh đã theo nhau kéo đến. Lúc bấy giờ ăn chẳng được, mà ngủ cũng chẳng yên, người ta mới thấm thía được hết ý nghĩa của câu:
Ăn được, ngủ được là tiên
Không ăn, không ngủ, mất tiền thêm lo.
Thêm lo thì đã quá muộn rồi. Vậy, muốn được sống trường thọ, kéo dài tuổi xuân thì ăn chơi phải có điều độ, phải biết dè chừng, theo tinh thần tự chế:
Tay tiên chuốc chén rượu đào
Đổ đi dẫu tiếc, uống vào tất say.
(Đúng ra là: Đổ đi thì tiếc, uống vào thì say).
Ngày nay, nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI. Sách báo và nhiều người xung quanh ta thường nói đến những vấn đề liên quan đến các phát minh tiến bộ vượt bực của khoa học như về các loại máy móc điện tử, về truyền thống vệ tinh, cùng các tiến bộ đáng kể của ngành y dược như đã tìm ra các phương thuốc trị bệnh hiểm nghèo, đã cứu được nhiều sinh mạng bằng phép ghép thận, ghép gan, thay tim, v...v...
Nhờ vậy, con người đã được hưởng một cuộc sống văn minh vật chất tiến bộ đáng kể, và sức khoẻ cũng được bảo vệ tối đa, tuổi th? vì thế đã gia tăng rất nhiều. Người xưa, năm mươi tuổi đã được liệt vào thọ cách, ai sống đến bảy mươi cho là hi hữu. Người nay, tuổi thọ trung bình đã vượt lên từ bảy mươi lên tới tám mươi tuổi. Có nhiều cụ đã sống trên cả trăm tuổi (cụ bà Jeanne Clément là người thọ nhất thế giới, đã ăn mừng sinh nhật lần thứ 126!). Vậy mà chúng ta còn giở lại những câu ca dao, thành ngữ cổ truyền của dân tộc để tìm hiểu, học hỏi thêm về những bí quyết trường sinh của người xưa, không biết như thế có lạc hậu không?
Tôi thiết nghĩ là không. Thực vậy, nếu chúng ta nắm được nghệ thuật sống, nghĩa là biết dung nạp những ưu điểm của hai lối sống kia để bổ khuyết cho nhau, như chúng ta vẫn sống đời văn minh tiến bộ của Aâu Mỹ để được bảo đảm sức khoẻ cùng những tiện nghi vật chất. Nhưng chúng ta sẽ không bắt chước tinh thần Aâu Mỹ chạy đua với kim đồng hồ, đua đòi, đuổi theo những tiện nghi để bị lệ thuộc tiện nghi, khiến lúc nào cũng phải sống vội vã: hùng hục làm việc, hùng hục hưởng thụ, để rồi suốt đời sống trong vòng quẩn quanh này, mà chúng ta nên sáng suốt trở về sống với quan niệm nhân sinh của ông cha ta: sống giản dị, tri túc tiện túc, thanh thản, hoà hợp với thiên nhiên, đồng thời hướng về những thú vui tinh thần thanh cao nhân ái và đạo nghĩa.
Chỉ có quan niệm sống dung hợp như thế chúng ta mới có nhiều cơ may kéo dài tuổi xuân, và tâm hồn lúc nào cũng được thoải, mái, hạnh phúc. Và chỉ có quan niệm sống dung hợp như thế mới thực sự thích hợp với bản chất và tâm tính con người Việt Nam.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)