Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

Hoang phế Hải Vân Quan

Hoang phế Hải Vân Quan
Là một di tích lịch sử văn hóa đã được công nhận, nhưng Hải Vân Quan lại có một “số phận” hẩm hiu nhất là kể từ khi khai thông hầm đèo Hải Vân. Sự hoang vắng giữa chốn sương mờ ảo, sự ứng xử vô tình của con người và sự bào mòn của thiên nhiên đã làm Hải Vân Quan bị biến dạng…
Dấu xưa huy hoàng
Sử sách chép rằng, năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng thứ 7 đã cho xây đắp cửa Hải Vân ở đỉnh núi Hải Vân trong cảnh núi đèo hoang vu. Trước đó, vào khoảng năm 1470, khi đi ngang qua đèo Hải Vân, vua Lê Thánh Tông thấy cảnh đẹp và địa hình núi non hiểm trở nên đã đặt cho nơi đây là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Về sau, trải qua nhiều đời vua, chúa của triều Nguyễn và thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hải Vân Quan vẫn luôn được xem trọng với vị trí chiến lược về chính trị, an ninh và quốc phòng. Dấu tích xưa của Hải Vân Quan vẫn được lưu lại trong các thư tịch cổ nước nhà. Biết bao tấm gương của tổ tiên người Việt đã băng rừng, trèo đèo, lội suối với bao hiểm nguy để dựng xây nên một vùng đất phương Nam màu mỡ và trù phú như ngày hôm nay. Tên tuổi của Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Tri Phương... vẫn được người đời sau hết lời ca tụng.
Từ xưa, Hải Vân Quan vừa là trạm trung chuyển, điểm dừng chân, trên con đường thiên lý Bắc-Nam, vừa là vùng cửa ngõ của nước Đại Nam, đồng thời trở thành cột mốc ranh giới phân định giữa Thừa Thiên Huế và TP. Đà Nẵng bây giờ.
Không những thế, Hải Vân Quan còn nằm trên một địa thế khá lý tưởng. Địa hình cheo leo, khúc khuỷu, khí hậu mát mẻ quanh năm. Đó là chốn “thiên cảnh bồng lai” nằm giữa hai bãi biển đẹp (Lăng Cô và Nam Ô), một bên là núi với sương trắng bao phủ quanh năm, một bên là biển hiền hòa soi mình trong ánh nắng vàng, từng làm lay động tâm hồn biết bao người. Từ trên Hải Vân Quan nhìn về hai phía, du khách sẽ chiêm ngưỡng cảnh sắc trời mây kỳ vĩ của thiên nhiên ban tặng với những chứng tích của nhiều thời kỳ lịch sử huy hoàng, là niềm tự hào về quá khứ vàng son của khúc ca khải hoàn “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”.
Chạnh lòng cho di tích!
Dấu xưa huy hoàng là vậy, con đường thiên lý Bắc- Nam quanh co, trắc trở là thế nhưng từ năm 2000, khi hầm đèo Hải Vân- công trình thế kỷ XXI được thông xe, Hải Vân Quan càng vắng người qua lại. Hơn 10 năm trôi qua, mặc dù đã được xếp hạng là một di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, song di tích này vẫn chưa được trùng tu, tôn tạo (?).
Men theo con đường nhỏ dốc và lởm chởm đá để lên cổng Hải Vân Quan, chúng tôi thấy cổng vòm cao bám đầy rêu xanh mang dấu ấn thời gian. Cổng Hải Vân giờ rất ít người qua lại, cũng chẳng còn người đứng gác hay bảo vệ. Quang cảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là nham nhở dây leo, cỏ cây hoang dại xen lẫn trong những hầm hố, bám níu trên cổng thành. Dấu tích thời gian của sáu chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” vang danh một thời cũng dần mờ theo năm tháng.
Lên đến Hải Vân Quan, thoả sức nhìn cảnh trời mây, chúng tôi còn nhìn thấy nhiều lô cốt sụt bể nắp nằm nghiêng ngả. Gần các lô cốt này là những lỗ châu mai “bám” nhiều cỏ lau, cây dại. Lân la cùng đoàn cựu chiến binh viếng thăm Hải Vân Quan, một cựu chiến binh đến từ Thái Bình cho chúng tôi biết, những lô cốt này được người Pháp xây dựng vì mục đích quân sự với nhiều hình dạng, quay về các hướng khác nhau để kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối liền đất nước, Quốc lộ 1A, nhưng giờ chổng chơ chẳng khác gì phế tích (!?). Nằm liền kề là một ngôi nhà, vốn xưa kia là trụ sở của những người trông coi Hải Vân Quan, giờ cũng bị bỏ hoang.
Nhìn cổng Hải Vân Quan cùng với những lô cốt, lỗ châu mai đang “gồng mình” chống chọi lại sức tàn phá của thiên nhiên, chúng tôi cảm thấy xót xa cho di tích. Không biết đến bao giờ Hải Vân Quan mới được được đối xử bình đẳng như những di tích đã được công nhận là di sản lịch sử văn hóa của tỉnh?n
Là một di tích lịch sử văn hóa đã được công nhận, nhưng Hải Vân Quan lại có một “số phận” hẩm hiu nhất là kể từ khi khai thông hầm đèo Hải Vân. Sự hoang vắng giữa chốn sương mờ ảo, sự ứng xử vô tình của con người và sự bào mòn của thiên nhiên đã làm Hải Vân Quan bị biến dạng…
Dấu xưa huy hoàng








Sử sách chép rằng, năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng thứ 7 đã cho xây đắp cửa Hải Vân ở đỉnh núi Hải Vân trong cảnh núi đèo hoang vu. Trước đó, vào khoảng năm 1470, khi đi ngang qua đèo Hải Vân, vua Lê Thánh Tông thấy cảnh đẹp và địa hình núi non hiểm trở nên đã đặt cho nơi đây là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Về sau, trải qua nhiều đời vua, chúa của triều Nguyễn và thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hải Vân Quan vẫn luôn được xem trọng với vị trí chiến lược về chính trị, an ninh và quốc phòng. Dấu tích xưa của Hải Vân Quan vẫn được lưu lại trong các thư tịch cổ nước nhà. Biết bao tấm gương của tổ tiên người Việt đã băng rừng, trèo đèo, lội suối với bao hiểm nguy để dựng xây nên một vùng đất phương Nam màu mỡ và trù phú như ngày hôm nay. Tên tuổi của Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Tri Phương... vẫn được người đời sau hết lời ca tụng.Từ xưa, Hải Vân Quan vừa là trạm trung chuyển, điểm dừng chân, trên con đường thiên lý Bắc-Nam, vừa là vùng cửa ngõ của nước Đại Nam, đồng thời trở thành cột mốc ranh giới phân định giữa Thừa Thiên Huế và TP. Đà Nẵng bây giờ.Không những thế, Hải Vân Quan còn nằm trên một địa thế khá lý tưởng. Địa hình cheo leo, khúc khuỷu, khí hậu mát mẻ quanh năm. Đó là chốn “thiên cảnh bồng lai” nằm giữa hai bãi biển đẹp (Lăng Cô và Nam Ô), một bên là núi với sương trắng bao phủ quanh năm, một bên là biển hiền hòa soi mình trong ánh nắng vàng, từng làm lay động tâm hồn biết bao người. Từ trên Hải Vân Quan nhìn về hai phía, du khách sẽ chiêm ngưỡng cảnh sắc trời mây kỳ vĩ của thiên nhiên ban tặng với những chứng tích của nhiều thời kỳ lịch sử huy hoàng, là niềm tự hào về quá khứ vàng son của khúc ca khải hoàn “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”.
Chạnh lòng cho di tích!
Dấu xưa huy hoàng là vậy, con đường thiên lý Bắc- Nam quanh co, trắc trở là thế nhưng từ năm 2000, khi hầm đèo Hải Vân- công trình thế kỷ XXI được thông xe, Hải Vân Quan càng vắng người qua lại. Hơn 10 năm trôi qua, mặc dù đã được xếp hạng là một di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, song di tích này vẫn chưa được trùng tu, tôn tạo (?).Men theo con đường nhỏ dốc và lởm chởm đá để lên cổng Hải Vân Quan, chúng tôi thấy cổng vòm cao bám đầy rêu xanh mang dấu ấn thời gian. Cổng Hải Vân giờ rất ít người qua lại, cũng chẳng còn người đứng gác hay bảo vệ. Quang cảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là nham nhở dây leo, cỏ cây hoang dại xen lẫn trong những hầm hố, bám níu trên cổng thành. Dấu tích thời gian của sáu chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” vang danh một thời cũng dần mờ theo năm tháng. Lên đến Hải Vân Quan, thoả sức nhìn cảnh trời mây, chúng tôi còn nhìn thấy nhiều lô cốt sụt bể nắp nằm nghiêng ngả. Gần các lô cốt này là những lỗ châu mai “bám” nhiều cỏ lau, cây dại. Lân la cùng đoàn cựu chiến binh viếng thăm Hải Vân Quan, một cựu chiến binh đến từ Thái Bình cho chúng tôi biết, những lô cốt này được người Pháp xây dựng vì mục đích quân sự với nhiều hình dạng, quay về các hướng khác nhau để kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối liền đất nước, Quốc lộ 1A, nhưng giờ chổng chơ chẳng khác gì phế tích (!?). Nằm liền kề là một ngôi nhà, vốn xưa kia là trụ sở của những người trông coi Hải Vân Quan, giờ cũng bị bỏ hoang.Nhìn cổng Hải Vân Quan cùng với những lô cốt, lỗ châu mai đang “gồng mình” chống chọi lại sức tàn phá của thiên nhiên, chúng tôi cảm thấy xót xa cho di tích. Không biết đến bao giờ Hải Vân Quan mới được được đối xử bình đẳng như những di tích đã được công nhận là di sản lịch sử văn hóa của tỉnh?
Bài và ảnh: Dương Văn Út

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét